Đây là bước đi quan trọng, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ trong việc mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng cao cho người dân tộc thiểu số, đồng thời xây dựng đội ngũ lao động, cán bộ nòng cốt đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Đề án được kỳ vọng sẽ góp phần giải quyết căn cơ bài toán nguồn nhân lực tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới và hải đảo – những địa bàn còn nhiều khó khăn nhưng giữ vị trí chiến lược về kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh. Việc đầu tư bài bản cho giáo dục, đào tạo không chỉ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ mà còn tạo động lực phát triển bền vững, thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền.
Mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng cao
Đề án áp dụng đối với học sinh, sinh viên, học viên là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo hoặc thuộc hộ nghèo theo học các ngành, lĩnh vực trọng điểm. Bên cạnh đó, các trường dự bị đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học, học viện, viện nghiên cứu và các cơ quan, tổ chức liên quan cũng là những chủ thể tham gia triển khai Đề án.
Mục tiêu xuyên suốt của Đề án là mở rộng công bằng trong tiếp cận giáo dục chất lượng cao, tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tập, rèn luyện trong những ngành, lĩnh vực có nhu cầu nhân lực lớn, đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên nền tảng đó, hình thành lực lượng lao động, cán bộ nòng cốt có trình độ, phẩm chất và năng lực, đủ sức gánh vác nhiệm vụ phát triển địa phương và đóng góp cho đất nước.
Trong giai đoạn 2026-2035, Đề án phấn đấu tuyển mới hằng năm từ 2.000 đến 2.500 sinh viên trình độ cao đẳng, đại học là người dân tộc thiểu số. Trong số này, dự kiến có từ 1.000 đến 1.500 sinh viên có tiềm năng được lựa chọn, bồi dưỡng chuyên sâu để trở thành lực lượng lao động, cán bộ nòng cốt phục vụ phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Cơ cấu ngành nghề được định hướng phù hợp với nhu cầu thực tiễn, trong đó nhóm ngành sức khỏe chiếm khoảng 7–10%, nông – lâm nghiệp từ 5–10%, du lịch từ 5–10%, số còn lại thuộc các ngành, lĩnh vực trọng điểm khác.
Song song với đào tạo trình độ đại học, cao đẳng, quy mô đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ là người dân tộc thiểu số cũng được chú trọng, phấn đấu tăng tối thiểu 10% mỗi năm. Quy mô tuyển sinh đào tạo dự bị đại học dành cho học sinh dân tộc thiểu số cũng đặt mục tiêu tăng ít nhất 10% hằng năm, tạo nguồn đầu vào bền vững cho các bậc học cao hơn.
Định hướng dài hạn đến năm 2045
Không dừng lại ở giai đoạn 2026–2035, Đề án còn xác định tầm nhìn dài hạn đến năm 2045. Theo đó, quy mô và phạm vi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là người dân tộc thiểu số sẽ tiếp tục được mở rộng, tập trung vào các ngành, lĩnh vực có thế mạnh, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong từng thời kỳ.
Cụ thể, giai đoạn 2026-2030, Đề án ưu tiên đào tạo các ngành, lĩnh vực: sức khỏe, công nghệ thông tin, nông nghiệp, tài chính – ngân hàng, đào tạo giáo viên, du lịch và công tác xã hội. Sang giai đoạn 2030–2035, phạm vi đào tạo sẽ được mở rộng thêm, bám sát yêu cầu phát triển mới của nền kinh tế và nhu cầu nhân lực tại các địa phương.
Để Đề án được triển khai hiệu quả, Chính phủ xác định thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp trọng tâm, xuyên suốt từ khâu tạo nguồn, tổ chức đào tạo đến bảo đảm đầu ra và hoàn thiện cơ chế, chính sách. Một trong những giải pháp quan trọng là nâng cao năng lực và chất lượng hệ thống cơ sở đào tạo, đặc biệt là các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú và cơ sở dự bị đại học. Cùng với đó, Nhà nước sẽ đầu tư có trọng tâm cho một số cơ sở giáo dục đại học chủ chốt nhằm bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, chương trình đào tạo và đội ngũ giảng viên, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho người dân tộc thiểu số.
Chương trình, giáo trình và tài liệu giảng dạy sẽ được rà soát, điều chỉnh hoặc xây dựng mới theo hướng hiện đại, linh hoạt, phù hợp với trình độ người học và điều kiện kinh tế – xã hội của từng vùng. Đề án cũng đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học, công nghệ trong đào tạo thông qua việc xây dựng nền tảng quản lý đào tạo số thống nhất, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong tuyển sinh, quản lý người học, phân tích và dự báo nhu cầu nhân lực. Hệ thống học liệu số đa ngôn ngữ, bao gồm tiếng Việt và một số tiếng dân tộc phổ biến, sẽ được phát triển nhằm mở rộng khả năng tiếp cận tri thức cho người học.
Về nguồn lực, ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo và được lồng ghép với các chương trình, đề án, chương trình mục tiêu quốc gia có liên quan. Đồng thời, Chính phủ khuyến khích hợp tác công – tư, huy động sự tham gia của doanh nghiệp, cơ sở đào tạo tư thục và các nguồn lực xã hội hợp pháp nhằm hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số theo đúng quy định pháp luật.
Gắn đào tạo với thị trường lao động, bảo đảm đầu ra
Một điểm nhấn quan trọng của Đề án là xây dựng hệ sinh thái đào tạo gắn với thị trường lao động, bảo đảm đầu ra bền vững cho người học. Các cơ sở đào tạo sẽ tăng cường kết nối với doanh nghiệp, trung tâm dịch vụ việc làm và chính quyền địa phương để tư vấn, giới thiệu việc làm ngay trong quá trình đào tạo. Đồng thời, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về nghề nghiệp, thị trường lao động và xu hướng việc làm theo từng vùng, miền sẽ được xây dựng, cập nhật thường xuyên.
Đề án cũng khuyến khích phát triển các mô hình khởi nghiệp, hỗ trợ vay vốn và bồi dưỡng kỹ năng quản trị, kinh doanh cho người học sau đào tạo, qua đó gắn đào tạo với phát triển kinh tế tư nhân và xây dựng sinh kế bền vững tại địa phương. Bên cạnh đó, các cơ chế, chính sách đặc thù cho người học là người dân tộc thiểu số như miễn, giảm học phí; hỗ trợ chi phí học tập, sinh hoạt, chỗ ở; bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học; phát hiện và bồi dưỡng tài năng… sẽ tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện.
Việc phê duyệt và triển khai Đề án không chỉ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số mà còn thể hiện rõ quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước về phát triển con người, bảo đảm công bằng xã hội và không để ai bị bỏ lại phía sau trên con đường phát triển. Đây được xem là nền tảng quan trọng để các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi vươn lên mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.











