Tổ chim bé bỏng
Hiền, một bé gái đang học lớp 6. Ba em là sĩ quan điều khiển ngư lôi, phục vụ trong đơn vị tàu ngầm nên thường xuyên vắng nhà. Má Hiền phụ trách đội công nhân chăm sóc cây xanh tại khu nghỉ dưỡng ngoại vi thành phố biển. Mùa hè, Hiền hay theo tới chỗ làm phụ giúp má, bởi em cũng thích trồng cây.
Ở đây mát mẻ và yên tĩnh. Mé ngoài rặng dừa kia là biển. Ngực biển vồng lên đang thở phập phồng, xanh thẳm màu ngọc phỉ thuý. Dưới lòng biển thẳm biết đâu con tàu của ba đang tuần tra qua sát bờ nơi má con em đứng. Mé trong này, khu nghỉ dưỡng xanh ngắt như một ốc đảo màu lục bảo nổi trên nền vàng cát nóng bỏng xứ miền Trung. Những ngôi nhà mái đỏ xinh xắn ẩn hiện khuất bóng rừng dương. Cây xanh gọi chim về lập thành vương quốc. Có đủ tiếng các loài chim gọi nhau trên nền sóng biển rì rào. Dễ nhận nhất là tiếng chim bắt cô trói cột. Văng vẳng tiếng kêu buồn bã của loại chim không ai thấy mặt này lúc xa lúc gần. Chúng kêu vào những buổi chiều tà cho đến lúc nửa đêm về sáng. Lắm lời nhất là lũ chim sẻ. Tiếng bầy sẻ choanh choách đuổi nhau quanh những khu vườn lẩn khuất. Buổi trưa im lìm khoan thai trong tiếng gáy chim cu. Nghe tiếng chim cu gù, mắt Hiền chỉ muốn díp lại như khi phải làm bài tập toán. Em gọi bầy chim cu là thần ru ngủ.
Ngược lại với lũ chim lắm lời, những người vừa đến lưu trú ở đây lại đặc biệt ít nói. Hiền để ý đến một bác trung niên đeo khăn rằn hay mang máy tính ra làm việc ngoài hiên. Lắm khi bác vừa gõ phím vừa lẩm bẩm nom thật tức cười. Hiền nghe mấy người cùng đoàn gọi tên là bác Việt. Có hôm em đi ngang qua hàng rào thấy mắt bác đỏ hoe như đang khóc. Chợt thấy Hiền, bác vội dụi mắt, đứng vụt dậy gượng cười giơ tay chào em như điều lệnh quân đội. Bác bảo bác nhớ bạn vẫn đang còn nằm mãi ở một chiến trường xa. Ba cũng hay chào vui má con Hiền như thế mỗi khi đi công tác về. Em cũng từng thấy ba lẩn vào toilet lau nước mắt khi nghe tin một chiếc máy bay hải quân bị tai nạn rơi trên biển. Những người lính thật lạ lùng. Họ vẫn khóc được như trẻ con, chỉ có điều luôn giấu nước mắt đi mà thôi.
Kể từ hôm đó hai bác cháu quen rồi thân nhau. Má bảo Hiền bác Việt là nhà văn quân đội. Con đừng làm phiền để bác tập trung làm việc. Nhưng chỉ đôi hôm không thấy bóng Hiền bác lại qua má hỏi thăm em. Chủ nhật, Hiền phát hiện một tổ chim chích bông trong bụi cây phong ba thấp sát mé rừng dương. Em chạy đến khoe với bác. Hai bác cháu rón rén lại gần hồi hộp quan sát. Chiếc tổ chim bé bỏng thật bất ngờ, nằm ngay cạnh đường đi. Chim mẹ khâu níu, chập ba chiếc lá cây phong ba lại với nhau bằng những sợi tơ nhện cùng thân cỏ chắc chắn. Phía trong lòng cuộn những sợi lá dương khô và lông chim mẹ tự rứt ra lót ổ. Nghe gió động cành cây tưởng chim mẹ về, ba chiếc mỏ vàng choé rướn lên há ngoác ra đòi mớm.
Rồi chim mẹ về thật. Nghe tiếng lích rích gấp gáp sốt ruột phía sau, hai bác cháu nhẹ nhàng rời đi, giả đò như không hề biết cái gia đình ấm êm đang đu đưa treo trên những chiếc lá phong ba xanh thắm. Bác Việt bảo những nơi nào chim chóc dạn người thì đất nơi đó lành và con người nhân hậu. Bác từng biết có những vùng đất người ta khâu mắt cò vạc để làm chim mồi bẫy đồng loại của chúng. Bác đọc cho em nghe bài thơ đang viết dở bằng một giọng trầm buồn. Đoạn thơ dở dang về con chim mù không hiểu sao Hiền lại nhớ hơn những bài thơ đang học trên lớp.
Cá mài mại lưng xanh
Cá rô cờ vây ráng đuôi rồng
Hút chạch dài lấm chấm bãi sông
Chim chào mào ngó nghiêng cành ớt
Đêm thu thảng thốt
tiếng sếu thiên di xao xác cánh đồng
Nay chúng đã bay về miền hư không
Bỏ lại những ngày đông vắng ngắt
Chim gáy chim ri chẳng tin người
Bù ngót mồng tơi không tin đất
Đêm bãi sông mưa buốt
Khoảng đồng sau
trên chiếc cọc cao
có con vạc đồng
mắt mù vì bị khâu
khàn khàn cất tiếng kêu tìm đồng loại.
Một buổi trưa, Hiền đang ngồi chơi với má bỗng thấy con rắn mối lớn tha một con chim non kêu lít nhít chạy trên hàng rào dâm bụt. Em nhặt một cành dương khô đuổi theo cướp lại nhưng không kịp. Con bò sát tinh quái đuôi dài đã biến mất trong một bụi rậm. Hiền vội đến tổ chim chích bông kiểm tra. Quả nhiên chỉ còn hai cái mỏ há ra đòi ăn. Lũ chim non không hiểu những nguy hiểm đang rình rập chúng. Hiền mếu máo khóc, đến mách bác Việt. Bác cũng tiếc con chim, vỗ về an ủi em. “Đời sống thiên nhiên muôn đời vẫn thế con à. Với lại chim mẹ nó không biết đếm như con người. Chớ lo nó buồn”.
Sau sự cố này, mẹ con nhà chích bông trở nên nổi tiếng toàn khu nghỉ dưỡng. Chiếc tổ chim bé bỏng nhận được sự bảo vệ đặc biệt của mọi người. Bác Việt mang máy tính đến chiếc bàn dưới bóng cây gần đó, vừa làm việc vừa canh chừng. Tổ trồng trọt đáo qua đáo lại để mắt liên tục. Thậm chí các em bé theo cha mẹ đến khu nghỉ mát còn phân công nhau lập một “trạm gác” ở đầu hàng rào giáp với rừng dương, hễ gặp rắn mối là xua đuổi.
Chim chích bông mẹ dường như biết có sự hỗ trợ, càng chăm chỉ kiếm mồi hơn. Đôi cánh vun vút đi về, vẽ trong nắng mai những đường bay màu xanh lục. Được mớm nhiều, hai con chim non lớn nhanh như thổi. Chẳng mấy chốc những chiếc lông măng đã bung phủ thành lớp lông vũ óng ả. Chúng đã biết trèo ra khỏi tổ, dợm chân vẫy đôi cánh non mừng đón chim mẹ về.
Lũ chim non đã biết bay chuyền những đoạn khá xa. Ngày chúng rời ổ đúng vào ngày đợt công tác của bác Việt kết thúc. Hai bác cháu chia tay bên chiếc tổ gia đình chích bông. Thấy Hiền tần ngần nhìn cái tổ vắng chim, bác an ủi: “Khi lá phong ba già thì chiếc tổ sẽ rụng theo thôi con à. Sự chia tay cái cũ luôn ghi dấu những sự trưởng thành. Bầy chim non sẽ lớn lên và xây những tổ ấm mới. Rồi bác sẽ gửi cho con một cái tổ chích bông không bao giờ rụng.” Bác xốc lại ba lô, vui vẻ chào em theo điều lệnh quân đội. Em vẫy tay theo chiếc xe chở đoàn bác chạy xa dần.
Một ngày trước lễ Giáng sinh, Hiền nhận được một bưu kiện nhỏ ghi đích danh tên mình. Hai má con hồi hộp mở xem. Ô! Một cuốn sách thật đẹp cùng lời đề tặng của bác Việt: “Tặng cháu Hiền yêu quý câu chuyện Tổ CHIM BÉ BỎNG”. Em vui sướng cầm cuốn sách còn thơm phức mùi mực in chạy ra vườn. Trên vòm lá xanh hôm nay có tiếng chim chích bông kêu ríu rít.