Bệnh bạch hầu là do vi khuẩn bạch hầu Corynebacterium diphtheriae (C. diphtheriae) gây ra. Vi khuẩn này có thể lây từ người này sang người khác khi người nhiễm bệnh ho hoặc hắt hơi. Một số người có thể không phát triển các biểu hiện bệnh nhưng vẫn truyền vi khuẩn sang người khác.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh bạch hầu có thể ảnh hưởng đến bất cứ ai nhưng phổ biến nhất ở trẻ em chưa được tiêm chủng.
Căn bệnh từng là "bóng ma"
Theo Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), bệnh bạch hầu lưu hành rộng rãi ở mọi nơi trên thế giới và đã gây nên các vụ dịch nghiêm trọng, nhất là ở trẻ em trong thời kỳ chưa có vaccine dự phòng.
Một sự kiện đáng lưu ý là những biến động xã hội ở một số nước như Nga, Ukraine... đã làm gián đoạn việc tiêm chủng vaccine bạch hầu cho trẻ em trong những năm 80 của thế kỷ trước. Do đó, bệnh bạch hầu đã phát triển và bùng nổ thành dịch lớn ở những nước này trong những năm 90 của thế kỷ 20.
Năm 1994, ở Nga đã có hơn 39.000 người mắc bạch hầu với 1.100 người không qua khỏi. Ở Ukraine có hơn 3.000 người mắc. Tuổi mắc bệnh chủ yếu là trên 15 tuổi.
Ở khu vực Tây Thái Bình Dương, hiện nay số mắc bệnh bạch hầu hàng năm giảm rõ rệt do hiệu quả của việc tiêm phòng vaccine bạch hầu cho trẻ em được thực hiện có kết quả ở các nước trong khu vực. Những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, hàng năm ở đây có trên 13.000 trường hợp bạch hầu, đến năm 1990 giảm xuống 1.130 trường hợp và năm 1994 còn 614 trường hợp.
Ở Việt Nam, thời kỳ chưa thực hiện tiêm vaccine bạch hầu trong Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR), bệnh bạch hầu thường xảy ra và gây dịch ở hầu hết tỉnh, đặc biệt là ở các thành phố có mật độ dân cư cao.
Do thực hiện tốt việc tiêm vaccine, tỷ lệ mắc bạch hầu ở Việt Nam đã giảm dần từ 3,95/100.000 dân năm 1985 xuống 0,14/100.000 dân năm 2000.
Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mặc dù có vaccine an toàn và hiệu quả, gần đây, do thiếu tiêm chủng, các đợt bùng phát đã xảy ra với tần suất ngày càng tăng, thường xảy ra ở những nơi có nguồn lực hạn chế.
Theo thống kê của WHO, trong năm 2021, bệnh bạch hầu vẫn ghi nhận tại nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó có một số nước trong khu vực châu Phi, Đông Địa Trung Hải như Ethiopia (4.453), Ấn Độ (1.768) Yemen (1.516), Indonesia (235), Pakistan (169), Burkina Faso (147), Afghanistan (61), Cộng hòa Trung Phi (57), Uganda (49), Philippines (38), Haiti (28), Cộng hòa Dominica (27), Madagascar (18).
Bắt buộc phải cách ly khi mắc, nghi ngờ mắc bạch hầu
Theo quy định của Bộ Y tế, bạch hầu là bệnh bắt buộc phải khai báo. Tất cả bệnh nhân viêm họng giả mạc nghi bạch hầu phải được vào viện để cách ly đường hô hấp nghiêm ngặt cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn hai lần âm tính.
Mỗi mẫu bệnh phẩm được lấy cách nhau 24 giờ và không quá 24 giờ sau khi điều trị kháng sinh. Nếu không có điều kiện làm xét nghiệm, phải cách ly bệnh nhân sau 14 ngày điều trị kháng sinh.
Ngoài ra, những người tiếp xúc mật thiết với bệnh nhân phải được xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong vòng 7 ngày. Bất kể tình trạng miễn dịch như thế nào, những người bị phơi nhiễm với bạch hầu được tiêm một liều đơn Penicillin hoặc uống Erythromycin từ 7 đến 10 ngày.
Đặc biệt, bệnh bạch hầu còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Do vậy, tất cả đồ dùng liên quan bệnh nhân bạch hầu phải được sát trùng tẩy uế đồng thời và sát trùng tẩy uế lần cuối.
Phòng bệnh nhân ở phải tẩy uế và diệt khuẩn hàng ngày bằng cresyl, chloramin B; đồ đạc như bát đĩa, đũa, chăn màn, quần áo… phải được luộc sôi; sách, vở, đồ chơi... phải được phơi nắng.
Theo Tạp chí Tri thức