+ Giám sát thời gian sử dụng điện thoại
Theo một nghiên cứu, sinh viên đại học có thể dành 8 – 10 giờ mỗi ngày với chiếc điện thoại. Theo dõi thời gian sử dụng điện thoại chẳng hạn như bằng cách tổng kết số lần mà bạn kiểm tra điện thoại trong một giờ có thể tăng cường khả năng nhận thức vấn đề. Nếu bạn nhận biết rõ mức độ của vấn đề, bạn có thể bắt đầu xác định mục tiêu và giải pháp để đối phó.
+ Lập kế hoạch sử dụng điện thoại
Hạn chế sử dụng điện thoại trong một vài thời điểm cố định trong ngày. Bạn có thể đặt chuông báo giờ điện thoại để thông báo khi bạn sử dụng hết thời lượng tối đa cho phép.
Ví dụ, bạn có thể cho phép bản thân sử dụng điện thoại từ 6 – 7 giờ tối. Bạn cũng có thể thiết lập thời gian nghiên cấm sử dụng điện thoại cụ thể, chẳng hạn như khi bạn đang đi học hoặc đi làm.
+ Tự thưởng cho bản thân mỗi khi bạn có thể giảm thiểu thời lượng sử dụng điện thoại
Khái niệm này được gọi là tự củng cố tích cực và được sử dụng trong trị liệu để hướng dẫn một người nào đó thực hiện hành vi tích cực thông qua hệ thống phần thưởng.Ví dụ, nếu bạn hoàn thành mục tiêu thời gian mà bạn đã đề ra cho quá trình sử dụng điện thoại, bạn có thể tự thưởng cho bản thân loại thức ăn mà bạn yêu thích, một vật dụng mới, hoặc một hoạt động nào đó.
+ Bắt đầu chậm rãi
Thay vì ngay lập tức ngừng sử dụng điện thoại hoàn toàn (hành động này có thể kích động sự lo lắng), bạn nên bắt đầu bằng cách giảm dần lượng thời gian mà bạn dành để kiểm tra điện thoại Ví dụ, bạn có thể bắt đầu bằng cách hạn chế số lần sử dụng điện thoại thành 1 lần trong 30 phút, sau đó là trong 2 giờ, v.v.
+ Cất điện thoại của bạn ở nơi khác
Bạn nên cất điện thoại của bạn tại nơi mà bạn không thể trông thấy nó. Thiết lập chế độ yên lặng cho điện thoại khi bạn đang đi làm, đang đi học hoặc đang có mặt tại bất kỳ một nơi nào khác để nó không làm bạn phân tâm.
Tìm sự đồng thuận trước khi cấm - phạt
Tiến sĩ Nguyễn Tùng Lâm, Chủ tịch Hội Tâm lý - Giáo dục Hà Nội, Hiệu trưởng Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, đã trả lời phỏng vấn Thanh Niên về việc nên ứng xử ra sao với việc học sinh (HS) sử dụng điện thoại di động (ĐTDĐ).
Xin ông cho biết, ở Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, ông quy định về việc HS sử dụng ĐTDĐ ra sao?
Trường tôi có quy định rất rõ là trong giờ học thì tuyệt đối HS không được sử dụng ĐTDĐ. Tuy nhiên, HS ở lứa tuổi này thì không thể cấm các em mang điện thoại đến lớp được nên giáo viên (GV) chủ nhiệm có trách nhiệm phải thu của HS, hết giờ trả lại.
GV có phải đối phó với nhiều tình huống “lách luật” của HS không, thưa ông?
Nếu GV thực sự quan tâm, bao quát lớp tốt thì HS làm việc riêng trong giờ học sẽ bị phát hiện ngay. Bên cạnh đó, chúng tôi còn có một bộ phận giám thị của trường ở vòng ngoài, chịu trách nhiệm giám sát cả HS và GV.
Chúng tôi xây dựng một bộ quy tắc ứng xử của toàn trường và của từng lớp. Ví dụ vi phạm lần 1 thì xử lý ra sao, lần 2 thì thế nào… nếu tái phạm nhiều lần thì buộc phải mời gia đình đến để cùng phối hợp, thậm chí giao điện thoại đó cho gia đình quản lý và cùng thống nhất không cho HS đó sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định…
Việc HS sử dụng ĐTDĐ dẫn tới... nghiện, nhu cầu chia sẻ, kết nối trên các mạng xã hội của các em quá lớn khiến cho việc cấm đoán không hiệu quả. Theo ông cần làm gì để cân bằng giữa nhu cầu có thực của HS và mong muốn của người lớn?
Giáo dục HS bây giờ không chỉ đơn thuần là ban ra một lệnh cấm và bắt tất cả phải làm theo. HS cũng có rất nhiều lý lẽ mà các em cho rằng lý lẽ đó là đúng do vậy quan trọng nhất vẫn là nhận thức của các em chứ không phải là những hình thức cấm đoán. Trách nhiệm này cần có sự phối hợp đồng bộ của cả gia đình, nhà trường và xã hội. Người lớn phải gương mẫu. Ở trường thì GV không dùng điện thoại vào việc riêng khi lên lớp, về nhà thì gia đình cũng cần dành thời gian để trò chuyện, tổ chức các hoạt động gia đình chứ nếu ai cũng ôm một cái điện thoại “cắm mặt” vào màn hình, không để ý gì đến xung quanh thì không thể cấm hoặc hạn chế con em mình lạm dụng điện thoại được.
Với lứa tuổi mới lớn như HS trung học, để tránh những phản ứng tiêu cực xảy ra khi bị cấm đoán thì cần có biện pháp gì để HS cảm thấy được chia sẻ và nhìn nhận tích cực hơn về những việc mình được làm và không nên làm?
Mỗi đầu năm học hoặc một học kỳ, chúng tôi dành một thời gian để HS và GV chủ nhiệm thảo luận, đề ra một bộ quy tắc ứng xử cho lớp mình trong đó có những việc được làm, không được làm; nên làm, không nên làm… Nguyên tắc đặt ra phải rất cứng rắn nhưng xử lý thực ra lại phải mềm dẻo theo từng đối tượng HS.
Với ĐTDĐ thì không thể thuyết phục HS là dùng điện thoại chỉ toàn tác hại, nói một chiều thế thì HS sẽ không nghe. Phải phân tích cả cái lợi, cái hại và hướng các em sử dụng như thế nào. Chúng ta phải đặt mình vào địa vị, tâm lý lứa tuổi của các em thì các em sẽ không thấy mình bị áp đặt, cấm đoán.
Minh Phương (tổng hợp)