Viết một bài văn đã bí từ thì đừng nói gì đến việc sáng tác được một truyện ngắn. Ấy vậy mà sau 2 năm dưới sự dẫn dắt của cô giáo Nguyễn Thị Huyền Hậu, “Tiểu quỷ sợ Văn” là tớ bỗng biến thành một “lều văn nhí” của lớp – mới lạ chứ?
Đọc truyện ngắn dưới đây tớ viết, nếu các bạn cảm nhận thấy có chút thú vị thì đó là công “nhào lặn” của cô giáo Huyền Hậu – cô phù thủy siêu đáng yêu của chúng tớ đấy! Tất nhiên là tớ cũng phải đổ mồ hôi trán để suy nghĩ và sửa từng câu, từng chữ để hoàn thiện truyện của mình. Tớ chia sẻ câu chuyện này không phải để được khen mà là để khích lệ tinh thần sáng tạo của các bạn. Hãy sẵn sàng thử sức nhé! Chúng mình viết không phải để trở thành nhà văn mà để tự tin khám phá những năng lực bên trong chính mình đấy các bạn ạ!
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tôi tên là Hải, tôi là một chú chuột cống đang trưởng thành. Tôi sinh ra và lớn lên trong một cái cống nhỏ dưới một con ngõ. Đấy không phải là ngôi nhà đẹp đẽ hay khang trang nhưng cơ bản là an toàn. Quan trọng hơn, tôi có Khôi – người bạn thân duy nhất đã sinh sống và lớn lên cùng tôi.
Khôi cũng là chuột cống. Nó to hơn tôi một chút, lông xám, cái đuôi ngắn tủn. Nhưng nó nhanh nhẹn và thông minh. Trong khi tôi chỉ thích gặm xương và ngủ thì Khôi luôn mơ về những cục phô mai trong nhà bà Han.
Một đêm nọ, trong cái lạnh ẩm ướt của cống, Khôi thì thầm:
– Ê Hải, tối nay đi không? Tao mới đánh hơi thấy mùi phô mai ở nhà bà Han cuối phố. Cái nhà có cái máy lạnh kêu rè rè ấy. Mùi thơm lắm… có cả xương mày thích đấy, cả mỡ lợn nữa!
Tôi hỏi: – Nhà nào? Nhà có con mèo màu trắng nằm trước cửa à?
– Đúng! Nhưng tao theo dõi rồi, cứ 12 giờ đêm là nó ngủ say như chết. Đấy là thời cơ để tao với mày kiếm ăn.
Tôi suy nghĩ một lúc. Cũng hơi lo nhưng vì đã hai ngày rồi không có gì bỏ bụng nên đành đồng ý.

12 giờ 30 phút đêm.
Chúng tôi bò qua rãnh nước, leo theo ống dẫn nước điều hòa, chui vào nhà qua khe hở ở căn bếp. Căn bếp rộng, sạch sẽ và thơm… thơm đến mức tôi muốn ăn và ngủ ở đây suốt đời.
Khôi dẫn đường, nhanh như chớp trèo lên bàn bếp. Tôi bám theo sau, cẩn thận từng bước. Trên bàn là một miếng phô mai – món khoái khẩu của Khôi, một đĩa thịt nguội và một ít xương để dành cho con chó to đùng.
Tôi nói với Khôi: “Ăn nhanh rồi đi thôi, không con mèo tỉnh dậy là nguy đấy!”. Khôi đáp: “Ừ, tao biết. Mày ăn nhanh đi!”.
Chúng tôi chia nhau, ăn đến no căng bụng. Tôi nhìn đồng hồ – 2 giờ sáng. Đã đến lúc phải chuồn.
– Đi thôi, Khôi!
– Tao ăn nốt cục phô mai đã.
Tôi nhảy xuống trước, chuẩn bị chui qua khe cửa thì…
“GRUUUU!!!”
Một tiếng gầm như sét đánh. Từ trong bóng tối, con mèo vàng to như quả dưa hấu bước ra. Nó không kêu “meo meo” như mèo ngoài chợ mà gầm như hổ. Khôi giật mình quay đầu nhưng đã muộn. Con mèo phóng lên mặt bếp như tia chớp. Tôi chỉ kịp thấy Khôi lăn sang một bên, hét lên: “Chạy đi, Hải!”. Rồi bóng Khôi biến mất dưới đống xoong nồi. Tiếng loảng xoảng vang lên… rồi im bặt.
Tôi đứng hình. Chân không nhúc nhích nổi. Mọi thứ như đóng băng. Bản năng sinh tồn buộc tôi quay đầu, chạy bán sống bán chết ra khỏi căn nhà đó.
Khôi đã bị con mèo nhà bà Han túm được…
Tôi đợi Khôi suốt đêm bên miệng cống quen thuộc. Gió lạnh thổi vào lòng cống, nước chảy rì rào. Nhưng không có tiếng chân của Khôi quay lại.
Từ hôm đó, tôi phải sống một mình. Và tôi tự nhủ: phải tránh xa những ngôi nhà có mèo và đặc biệt là không được tham ăn.










